髮 為 僧 逃 匿 得 免 . [34a*1*1] phát vi tăng, đào nặc đắc miễn. 今 保 祿 安 樂 周 原 等 村 猶 有 祠 在 意 暠 死 於 此 焉 . [34a*1*8] Kim Bảo Lộc, An Lạc, Chu Nguyên đẳng thôn do hữu từ tại, ý Cảo tử ư thử yên. 昭 宗 神 皇 帝 諱 椅 又 諱 漳 聖 宗 之 曾 孫 建 王 鑌 之 嫡 孫 錦 江 王 漴 之 長 子 也 在 位 七 年 為 莫 登 庸 所 弑 壽 二 十 六 塟 永 興 陵 . [34a*3*1] Chiêu Tông thần hoàng đế Huý Y, hựu huý Huệ, Thánh Tông chi tằng tôn, Kiến Vương Tân chi đích tôn, Cẩm Giang Vương Sùng chi trưởng tử dã, tại vị thất niên, vị Mạc Đăng Dung sở thí, Thọ nhị thập lục, táng Vĩnh Hưng lăng]. 時 既 板 蕩 政 非 已 出 内 聽 奸 䛕 外 荒 禽 獸 昏 暗 不 明 剛 愎 自 用 其 亡 也 宜 哉 ] . [34a*5*1] Thời, ký bản đãng chính phi dĩ xuất nội, thính gian dua ngoại, hoang cầm thú, hôn ám bất minh, cương phức tự dụng, kì vong dã nghi tai ]. 其 母 皇 后 鄭 氏 鸞 乃 清 漳 丕 暴 人 也 . [34a*6*1] Kì mẫu Hoàng hậu Trịnh Thị Loan nãi Thanh Chương, Phi Bạo nhân dã. 以 端 慶 二 年 十 月 初 四 日 生 . [34a*6*15] Dĩ Đoan Khánh nhị niên, thập nguyệt, sơ tứ nhật sinh. 洪 順 八 年 㐮 翼 帝 遇 害 無 嗣 大 臣 黎 義 昭 鄭 惟 㦃 等 迎 而 立 之 . [34a*7*9] Hồng Thuận bát niên, Tương Dực Đế ngộ hại vô tự, đại thần Lê Nghĩa Chiêu, Trịnh Duy Sản đẳng nghinh nhi lập chi. 後 㱕 西 都 紏 率 義 師 直 進 至 京 逐 陳 暠 遂 即 位 改 元 光 . [34a*8*15] Hậu quy Tây Đô củ suất nghĩa sư trực tiến chí kinh trục Trần Cảo, toại tức vị, cải nguyên Quang..
| Trang: 34a |
Dịch Quốc Ngữ đầu làm sư, ẩn trốn được thoát. Nay các thôn Bảo Lộc, An Lạc, Chu Nguyên[Chú giải] vẫn còn đền thờ Cảo, có lẽ Cảo chết ở đó. Chiêu Tông Thần Hoàng Đế Tên húy là Y, lại húy là Huệ, là con trưởng của Cẩm Giang Vương Sùng, đích tôn của Kiến Vương Tân, cháu bốn đời của Thánh Tông, ở ngôi 7 năm, bị Mạc Đăng Dung giết, thọ 26 tuổi, chôn ở lăng Vĩnh Hưng. Bấy giờ trong buổi loạn lạc, quyền bính không ở trong tay, bên trong thì nghe lời xiểm nịnh gian trá, bên ngoài lại ham mê săn bắn chim muông, ngu tối bất minh, ương ngạnh tự phụ, bị nguy vong là đáng lắm! Mẹ vua là hoàng hậu Trịnh Thị Loan, người xã Phi Bạo, huyện Thanh Chương. Năm Đoan Khánh thứ 2 [1506], tháng 10, ngày mồng 4, sinh ra vua. Năm Hồng Thuận thứ 8 [1516] Tương Dực Đế bị hại, không có con nối, bọn đại thần Lê Nghĩa Chiêu, Trịnh Duy Sản đón lập vua. Sau về Tây Đô, xướng xuất nghĩa quân, tiến thẳng về Kinh sư, đuổi Trần Cảo, rồi lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Quang |