| Phần giải nghĩa tự dạng |
| bện 緶 / 編 |
|
◎ Nôm: 𥾽 / 卞 âm HTC *pên [Schuessler 1988: 165]. AHV: biền. Sách Ngọc Thiên ghi: “Biền: may” (緶,縫衣也). Sách Thuyết Văn thông huấn định thanh ghi: “Biền: may khíu hai mép lại” (緶, 縫緝其邊曰缏). Hán Việt tự điển ghi: “緶 biền: đánh dây, bện” [Thiều Chửu 1999: 440]. x. buộc bện. Ss đối ứng: phẳn (Tày) [HTA 2003: 405], ben, pen (4 thổ ngữ Mường) [NV Tài 2005: 178], palạnh, kom (Katu) [NH Hoành 1998: 248]. Nôm: 𥾽. Phiên khác: bợn: vướng (MQL).
|
| đgt. HVVD “vướng víu” [PL 2012: 61], “quấn quýt, luẩn quẩn” [TVG, 1956: 34]. Nợ quân thân chưa báo được, hài hoa còn bện dặm thanh vân. (Ngôn chí 12.8)‖ (Tích cảnh 206.2). |
| danh phận 名分 |
|
|
| dt. danh tiếng và địa vị trong xã hội (có ý thấp kém). Tội ai cho nấy cam danh phận, chớ có thân sơ mới trượng phu. (Bảo kính 152.7). |
| dại dột 曵悅 |
|
|
| tt. ngốc, u mê [Paulus của 1895: 215], “dại dột. id” [Taberd 1838: 99]. Dưới công danh đeo khổ nhục, trong dại dột có phong lưu. (Ngôn chí 3.6)‖ (Tự thán 106.2)‖ (Tự thuật 115.2)‖ (Bảo kính 180.2). |
| dỉ 𠯇 |
|
◎ Thanh phù dĩ.
|
| đgt. <từ cổ> nói nhỏ cho biết. “dỉ. nói dỉ. nói di dỉ: nói điều bí mật gần tai” [Rhodes 1651 tb1994: 75]. Nay thường đọc và viết là “rỉ tai”. Dỉ bảo. (Tích cảnh thi 209.3)‖ Dỉ sứ chim xanh đừng chốc lối, bù trì đã có khí hồng quân. (Đào hoa thi 228.3). cđ rỉ. |
| ngáy 哎 |
|
◎ Thanh phù: ngải.
|
| đgt. gáy. Nẻo có ăn thì có lo, chẳng bằng cài cửa ngáy pho pho. (Ngôn chí 20.2)‖ Hễ kẻ làm khôn thì phải khó, chẳng bằng vô sự ngáy pho pho. (Bảo kính 176.8). |
| náu 耨 |
|
|
| đgt. ẩn đi, nấp đi, tránh đi. Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân, lưởng thưởng chưa lìa lưới trần. (Mạn thuật 33.1)‖ (Thuật hứng 70.1). đng lánh. |
| quân thân 君親 |
|
|
| dt. <Nho> vua và cha. Quân thân chưa báo lòng cánh cánh, tình phụ cơm trời áo cha. (Ngôn chí 8.7, 12.7)‖ (Mạn thuật 30.7)‖ (Tự thán 106.8)‖ (Bảo kính 159.7). |
| suy 衰 |
|
|
| đgt. giảm sút. Sắc là giặc, đam làm chi, khuở trọng còn phòng có khuở suy. (Giới sắc 190.2). |
| sương 霜 |
|
|
| dt. mù đọng. Phú quý treo sương ngọn cỏ, công danh gưởi kiến cành hoè. (Tự thán 73.3, 82.6)‖ (Bảo kính 157.6)‖ (Lão mai 215.1)‖ (Cúc 217.4, 240.2)‖ (Nhạn trận 249.6). |
| sắc không 色空 |
|
|
| dt. sắc và không là hai trạng thái của các vật nơi cõi trần: sắc là có hình tướng hiện ra thấy được; không là không hình tướng, không thấy được. Sắc và không ấy là nói tương đối với con mắt phàm của chúng ta: có hình tướng mà mắt thấy được gọi là sắc, còn mắt phàm không thấy gì cả thì gọi là không. Kinh bát nhã của Phật giáo có câu: sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc. (sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc). Theo quan niệm về nhân sinh của Phật giáo, muôn vật do sự biến đổi mà sinh ra, vốn không có thiệt. Thân thể của chúng ta hay của vạn vật là sắc, chỉ có tạm trong một thời gian sống, sau đó chết đi, xác thân rã tan biến trở lại thành không. Rồi từ chỗ không lại biến hoá thành hình tướng tức là sắc. Ai nhận biết được chân lý sắc không này thì không còn chấp cái sắc tướng, tức là chấp cái xác thân nơi cõi trần, thì người đó dứt được phiền não. Chiều mai nở chiều hôm rụng, sự lạ cho hay tuyệt sắc không. (Mộc cận 237.4). “sự lạ cho hay tuyệt sắc không, là một lời phát biểu điều tác giả tâm đắc về một chân lý của Phật mới được đốn ngộ. sự lạ là tiếng than khi nhận biết, đắc ngộ được một điều gì. Chiều mai nở chiều hôm rụng của bông hoa được tác giả nhận biết làm cho tác giả lĩnh hội được thuyết sắc không. Hoa sớm nở tối tàn, thì có bao giờ, có giây phút nào cái hoa thực sự được tồn tại ? như trên đã nói mọi vật đều là biểu hiện của tâm, cho nên là hư ảo và vô thường. Như vậy cũng có nghĩa là mọi vật luôn luôn trong sự biến hoá, luôn luôn đang sinh và luôn luôn đang diệt. Và, từ đó mà cũng là hư ảo, là không. Cho hay tuyệt sắc không, có nghĩa: mới biết tất thảy mọi vật trên thế gian xem như có dáng sắc thật đó mà kỳ thực chỉ là hư không. Kết quả vô minh không còn, vì lòng khát khao, tham luyến cũng dứt. Việc làm bây giờ không tạo được quản, thì quả của nghiệp trước được chồng chất phải hết, như vậy là thoát khỏi luân hồi, sinh tử đạt tới niết bàn.” [NN Luân 1992: 40]. |
| thanh phong 清風 |
|
|
| dt. gió mát. Say minh nguyệt chè ba chén, địch thanh phong lều một căn. (Mạn thuật 27.4). |
| tuyết sương 雪霜 |
|
|
| dt. tuyết và sương. Tính tình nào đoái bề ong bướm, tiết muộn chăng nài khuở tuyết sương. (Cúc 216.6)‖ (Tùng 219.4)‖ (Tùng 220.1). |
| tầng 層 |
|
◎ Đọc âm THV. AHV: tằng.
|
| dt. lớp. Am cao am thấp đặt đòi tầng, khấp khểnh ba làn, trở lại bằng. (Ngôn chí 16.1). |