Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ Điển
A Dictionary of 15th Century Ancient Vietnamese
Trần Trọng Dương.

Quốc Ngữ hoặc Hán-Nôm:

Phần giải nghĩa sic
chen 旃
◎ (sic) < 旃 (AHV: thiên, có âm Việt hoá là chiên). Đồng nguyên tự: chen - xen - len - chèn - ken.
đgt. lách chân vào, lách mình vào. Trúc mai bạn cũ họp nhau quen, cửa mận tường đào chân ngại chen. (Thuật hứng 46.2)‖ Phú quý thì nhiều kẻ đến chen, uốn đòi thế thái tính chưa quen. (Bảo kính 140.1).
đgt. xen giữa các khe các kẽ. Lại có hoè hoa chen bóng lục, thức xuân một điểm não lòng nhau. (Hạ cảnh tuyệt cú 197.3).
gưởi tính 𠳚恠
◎ (sic) < 性. Phiên khác: cãi quấy: ngư ông ca ngợi cảnh sông nước, người đốn củi tán dương chốn núi rừng, hai bên cãi nhau không ai chịu ai (MQL 2001: 855). Xét, ngư tiều là hai người bạn của ẩn sĩ, nên khó có thể cãi nhau ở đây được. Nay theo TVG, BVN, Schneider, PL.
đgt. dịch chữ “ký tính tình” (寄性情). Gưởi tính ngư tiều hai đứa lẫn, của ai non nước khiến ta bàn. (Tự thán 95.7). Xưa các nhà Nho thường gửi tâm sự trong thơ ca mây nước. Hai câu này ý nói, ta thì hãy gửi tình gửi tính như ngư ông, tiều phu kia, để mình lẫn vào với nước non này, còn chuyện “non nước” chính sự của ai kia thì chẳng còn ai muốn ta bàn bạc nữa.
khô khan 枯乾
◎ Nôm: 枯刊 AHV: khô hạn. Khan: dùng ʂ- ghi kʰ-, là một cách ghi chứng tỏ mối liên hệ giữa hai âm này.
tt. <từ cổ> khô, không có nước, khô khan= khô hạn, hạn đọc khan, là do đồng hoá ngược về thanh. “kho khan: siccus, a, um. An no kho khan: victus frugalis” [Morrone 1838: 263]. Nằm có chiếu chăn cho ấm áp, ăn thì canh cá chớ khô khan. (Bảo kính 134.6).
lù cù 老耉
◎ Nôm: 󰔄句 dt. HVVT AHV: lão củ. lão: người già trên bảy mươi tuổi, củ: già cả. lão củ: người già nói chung. Sau có biến thể là lụ khụ, lù khù. (ngu cú). 󰔄 (sic) < 𪪏. Nguyên chữ ngu 虞 và chữ lự 慮 đều có tục tự là 𪪏, cũng giống như chữ đức 德 chữ thương 傷 chữ sức 飭 đều có chung tục tự là 𱐩. Trong quá trình truyền bản đã có lần chữ 𪪏 được phồn hoá nhầm thành 虞. x. lừ cừ.
tt. HVVT HVVD <từ cổ> vẻ già nua, da mồi, dáng còng, “lủ cụ: người già lưng rất còng. còm lưng cùng một nghĩa”[Rhodes 1651: 140]. Bề sáu mươi dư tám chín thu, lưng gày da sảy, tướng lù cù. (Ngôn chí 15.2).
lội 沫
◎ (sic) < 洡. Ss đối ứng loj (6 thổ ngữ Mường) [NV Tài 2005: 181].
đgt. <từ cổ> bơi, lưu tích còn trong từ bơi lội, ngày nay lội chỉ dùng trong cụm “lội nước”. (Mạn thuật 29.3)‖ Đìa thanh, cá lội, in vầng nguyệt, cây tịnh, chim về, rợp bóng xuân. (Bảo kính 165.5).
ngay 𦖑
◎ (sic) <𣦍.
tt. <từ cổ> thẳng thắn, chính trực, lưu tích còn trong từ ngay thẳng. (Mạn thuật 25.8)‖ Cưu một lòng ngay khác chúng ngươi, ở chưng trần thế mấy phen cười. (Bảo kính 138.1, 141.2, 172.8, 184.4).
nén 𱴸
◎ (sic),các văn bản nôm thường bị nhầm chữ “碾” (AHV: niễn) với chữ Nôm “nặng” 𥘀, dẫn đến một số từ điển đã sưu tập những tự dạng này [NQH 2006: 741]. Xét, “niễn 碾: con lăn, ống trục nghiền như cái con lăn để tán thuốc vậy, dùng bánh tròn hay cột tròn lăn cho nhỏ đất cũng gọi là niễn.” [ĐT Kiệt 2010]. Như vậy, niễn sẽ cho các đồng nguyên tự là nghiến (chèn lên, nghiến răng), nghiền (-bột, -cám) và nèn (dùng lực đè lên cho chặt), nén (đè xuống ghìm xuống). Phiên khác: rán: cố gắng (BVN). Nay theo TVG, ĐDA, Schneider, VVK, MQL, PL.
đgt. ghìm lại, kìm lại, “đè nén: suspicari” [Taberd 1838: 330]. Nén lấy hung hăng bề huyết khí, tai nàn chẳng phải lại thung dung. (Tự giới 127.7). Nén niềm vọng mựa còn xốc xốc (Trần Nhân Tông - Cư Trần Lạc Đạo Phú).
quảy 掛
◎ Nôm: 挂 Đọc âm PHV, AHV : quải. Phiên khác: khoẻ (bản B). (sic). quẩy.
đgt. treo, khoác trên vai. Túi thơ bầu rượu quản xình xoàng, quảy dụng đầm hâm mấy dặm đàng. (Ngôn chí 9.2)‖ (Tảo xuân 193.8)‖ (Bảo kính 153.6, 155.6).
rêu 嫽
◎ (sic) < 燎, hiện tượng nhầm từ bộ hoả thành bộ nữ, thanh phù: liêu. Kiểu tái lập: *hrɛw¹ > rêu. [TT Dương 2013b]. Khảo dị: bản B ghi {艹 + 尞}. Phiên khác: lèo: lèo buồm (TVG), rều (ĐDA), diều: cái diều (BVN), rìu (Schneider). Nay theo nhóm MQL.
dt. dịch chữ đài 苔. Vương Chất tình cờ ta ướm hỏi, rêu bụi bụi thấy tiên đâu. (Trần tình 41.8). Mượn ý từ bài Tái đáo Thiên Thai của Tào Đường: “Lại đến Thiên Thai hỏi ngọc chân, rêu xanh đá trắng hoá bụi trần.” (再到天台訪玉真,蒼苔白石已成塵 tái đáo Thiên Thai phỏng ngọc chân, thương đài Bạch Thạch dĩ thành trần). x. Vương Chất. ở đây ý thơ đan cài hai điển khác nhau. Câu trên là nói về việc Vương Chất gặp tiên, câu dưới lại chắp ý thơ “rêu thành bụi trần” của Tào Đường về việc gặp tiên của hai chàng Lưu Nguyễn. Hiện tượng mỗi câu dùng một điển là một thủ pháp thường thấy trong thơ Nguyễn Trãi. x. bụi bụi.
rặt 列
◎ Nôm: 別 âm THV của liệt. Âm HTC: *[b]red (Phan Ngộ Vân), *red (Trịnh Trương Thượng Phương), *c-rjet (Baxter). AHV: liệt (tất cả các), như liệt quốc, liệt vị. (sic).
tt. HVVD toàn, chỉ có. Nhà ngặt túi không tiền mẫu tử, tật nhiều thuốc rặt vị quân thần. (Mạn thuật 29.6), chữ rặt đối với chữ không. bụng ông rặt những máy đồng hồ (tú xương - vị thành giai cú 3a).
tựa 揨
◎ (sic) < 𢭸.
đgt. dựa vào. Tựa cội cây ngồi hóng mát, leo heo ta hãy một leo heo. (Thuật hứng 67.7)‖ (Bảo kính 131.7).
uốn 彎
◎ Nôm: 𱚆 / 𭓩 / 揾 AHV: loan [Maspéro 1912: 37; NĐC Việt 2011: 15]. Âm phiên thiết: “ô oan” (Đường vận, Tập Vận, vận hội). Âm HTC: ʔruan (Lý Phương Quế), ʔron (Baxter). Âm HTrC: wan (Pulleyblank, Vương Lực). Như vậy, âm “loan” có khả năng xuất hiện trước đời Đường. Đối ứng -ua- (AHV) -uô- (THV): 販 phán/ bán buôn, 脫 thoát tuột, 拐 quải cuội,… [NĐC Việt 2011: 17]. Ss đối ứng uən (29 thổ ngữ Mường), wən (1) [NV Tài 2005: 285]. (sic), 𭓩 (sic< 宛), 揾.
đgt. nghĩa gốc là căng dây cong cánh cung để bắn (như chữ 彎弓), chuyển nghĩa “làm cho cong”. Thương cá thác vì câu uốn lưỡi, ngẫm ruồi chết phải bát mồ hòn. (Bảo kính 182.3).
đgt. (dẫn thân) khom lưng cong mình. (Mạn thuật 36.6)‖ Phú quý thì nhiều kẻ đến chen, uốn đòi thế thái tính chưa quen. (Bảo kính 140.2, 162.1). Mạc Đĩnh Chi trong bài Quá bành trạch phỏng Đào Tiềm cựu cư có câu: “Vì mấy đấu gạo mà khom lưng, thà treo ấn từ quan lộc”(斗米肯折腰,解印寧辭祿 đẩu mễ khẳng chiết yêu, giải ấn ninh từ lộc).
đgt. HVVD nắn thành, tạo nên. Trời phú tính, uốn nên hình, ắt đã trừng trừng nẻo khuở sinh. (Tự thán 96.1).
mạc 模
◎ (sic) < 摸. Phiên khác: mua (TVG, BVN).
đgt. <từ cổ> vẽ, tô, “mặt mạc: mặt nạ” (Béhaine 1773: 350, 279), “mạc: peindre” (Gustave Hue). Chinh phu tử sĩ mấy người, nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn (Đặng Trần Côn- Chinh phụ ngâm) dịch từ câu Chinh nhân mạo  thùy đan thanh, Tử sĩ hồn  thùy ai điếu (征人貌誰丹青, 死士魂誰哀弔), chữ “mạc mặt” dùng để dịch chữ “mạo” và “đan thanh”, trong đó “đan thanh 丹青, tức chu sa hay đan sa có mầu hồng, và thạch thanh một khoáng chất có mầu xanh, là những bột vẽ, nên có nghĩa là hội họa, là vẽ, là sử sách”. (PX Hy 2006). Cội cây la đá lấy làm nhà, Lân các ai hầu mạc đến ta. (Thuật hứng 54.2)‖ Bút thiêng Ma Cật, tay khôn mạc, Câu kháo Huyền Huy, ý chửa đông. (Thủy thiên nhất sắc 213.5)‖ hộ tượng: tượng vẽ mạc chưng mặt người (CNNA 44b).