Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ Điển
A Dictionary of 15th Century Ancient Vietnamese
Trần Trọng Dương.

Quốc Ngữ hoặc Hán-Nôm:

Phần giải nghĩa láy
chen chúc 𢷆木
AHV: chiên mộc. “mộc” và “chúc” chỉ có tương ứng khuôn vần, không có mối liên hệ tương ứng về thuỷ âm. Xét, đây là hiện tượng đồng hoá xuôi trong cách đọc chữ Nôm dưới áp lực của khuôn “uc” hoá trong hình thái láy. chen chóc (TVG, ĐDA).
đgt. bon chen, xô lấn nhau, “chen n. xen vào, nhét vào. Chen chúc id” [Paulus của 1895 t1: 130]. Được thua phú quý dầu thiên mệnh, chen chúc làm chi cho nhọc nhằn. (Mạn thuật 27.8).
day day 移移
◎ Phiên khác: dày dày (TVG,1956), dây dây (ĐDA 1976), “dày dày: ngời ngời” [PL 2012: 324, 329]. Xét, “dày dày” không thấy từ điển nào ghi nhận với nghĩa “ngời ngời”, chứng tỏ nghĩa này được dịch giả tự gán cho âm, bởi “dày” hoặc “dầy” nghĩa là “nhiều lớp”. Với âm “dầy dầy”, chỉ có nghĩa là “tiếng người đông chào rào” [Paulus của 1895: 218]. Mặt khác, âm “dày” thường được ghi bằng chữ Nôm “苔”. Chữ “移” có các âm phi Hán Việt là “dời” và “day”. “day: dời, trở qua, xây hướng. Day động: dời động, dây động”. Xét tự dạng, đây là một từ láy toàn phần, một kiểu láy phổ biến của giai đoạn thế kỷ XV, như “phơi phơi”, “tấp tấp”, “nồm nồm”, “pháy pháy”.
tt. HVVT <từ cổ> lay lay, khẽ đưa qua đưa lại. Môi son bén phấn day day, đêm nguyệt đưa xuân một nguyệt hay. (Mạt lị hoa 242.1), chữ day day hô ứng với chữ đưa ở dưới‖ Chiếm được thiều quang chín mươi, day day hoa nở tốt hoà tươi. (Dương 247.2).
lanh tranh 令挣
◎ Phiên khác: lanh chanh (ĐDA, BVN, VVK, MQL). Nay theo TVG. Phiên “chanh” chỉ là theo chính tả từ cuối thế kỷ XIX về sau, do hiện tượng xoá nhãn của ch- và tr-. Phiên tr- sẽ thấy được dấu vết ngữ âm và Từ Nguyên của ngữ tố này. ở thế kỷ XIX còn biến thể đảo âm như Paulus của (1895) ghi “chanh ranh”. Có thể tái lập từ láy này là tlanh tlanh. Các thuỷ âm l-, r- và tr- cho phép tái lập như vậy. Từ láy này có một ngữ tố gốc đó là tlanh, tức một dạng Việt hoá của “tranh” Hán Việt (爭), mà lưu tích của nó còn trong chữ “tranh giành” hiện nay. Cuối thế kỷ XIX, “lanh tranh/ chanh ranh” đã được khu biệt nghĩa, trỏ thói tranh giành của trẻ con.
đgt. <từ cổ> bon chen, tranh giành, “lanh tranh: chanh ranh, không nền nết, như con nít”[Paulus của 1895: 544]. Những màng lẩn quất vườn lan cúc, ắt ngại lanh tranh áng mận đào. (Thuật hứng 52.6).
lay thay 嚟咍
◎ Có bộ khẩu biểu thị là từ lấp láy [NQ Hồng 2006: 577]. Phiên khác: xoè hai (BVN, MQL), lay hay (VVK). Nay theo TVG, ĐDA, Schneider, PL.
tt. <từ cổ> vẻ cánh đập nhẹ nhàng. Làm sứ đi thăm tin tức xuân, lay thay cánh nhẹ mười phân. (Điệp trận 250.2).
loạt loạt 律律
AHV: luật luật. Phiên khác: lọt đọt (TVG), lọt lọt: rõ ràng mông một (ĐDA, MQL), rọt rọt: suivre, poursuivre (theo, theo đuổi, đeo đẳng), rebattre les oreilles (đập vào tai, nói mãi nghe đến chán tai) (Schneider, VVK), rọt rọt: rõ ràng, rành rọt (NTN). Bản B chép 𥾽𥾽 TVG: bền bện. BVN: biện biệt.
dt. HVVT <từ cổ> nhất loạt, từ chữ nhất luật 一律. luật là nguyên từ của loạt, tiếng Việt hiện tồn cả hai từ nhất luậtnhất loạt. Cho nên, ở câu thơ này, chữ luật luậtloạt loạt. Kiểu láy toàn phần như thảy thảy, nơi nơi, chốn chốn... Án tuyết mười thu uổng đọc thư, kẻo còn loạt loạt chữ Tương Như. (Mạn thuật 36.2). Có thể diễn xuôi như sau: mười năm uổng phí khổ luyện học sách nho, xong rồi, cái còn lại chỉ là miên man những chữ nghĩa từ quan quy ẩn của Tư Mã Tương Như, cả nước non này cũng chỉ là hư huyễn, sự nghiệp của ta rút cuộc là khoe chữ “nhàn” trong bài phú Tử Hư. [tham khảo thêm NH Vĩ 2010]. x. Tương Như.
mướn mung 慢夢
◎ Phiên khác: muộn mùng: muộn mằn, chậm trễ, lỡ thời (TVG), muộn màng (BVN), muộn mòng: thuê mướn (ĐDA), mượn mòng: thuê mướn (MQL, PL). Xét, “muộn” luôn được ghi bằng thanh phù 悶 trong lịch sử. Chữ “mượn” hơi khác nghĩa so với “mướn” dù là hai đồng nguyên tự. “mượn” nghĩa là “dùng nhờ đồ của người khác”, còn “mướn” là “chịu giá thuê mượn ít lâu” như thuyền mượn lái mướn [Paulus của 1895 t2: 59]. Ss đối ứng maɲ, muən (30 thổ ngữ Mường) [NV Tài 2005: 245].
đgt. thuê, âm “mướn mung” là một dạng láy theo khuôn “ung hoá”, như Lạnh lùng, sượng sùng, thẹn thùng, ngại ngùng… ruộng đôi ba khóm đất con ong, đầy tớ hay cày kẻo mướn mung. (Thuật hứng 56.2).
nhẻ 你
◎ Phiên khác: nhẹ (TVG, ĐDA, VVK, BVN), nể (Schneider), nệ: e ngại (PL), né (TT Dương, NH Vĩ 2011). Nay theo MQL.
đgt. <từ cổ> đầy, lắm, “nhe nhẻ: Plein, rempli de” [Génibrel 1898], “nhẻ” (đầy) chuẩn đối với “no” (đủ) [MQL 2001: 823]. Xét “nhe nhẻ” là dạng hậu kỳ của láy toàn phần “nhẻ nhẻ”, suy ra từ gốc là “nhẻ”, với cứ liệu này, “nhẻ” ở thế kỷ 15 vẫn được dùng độc lập Như vậy, nhẻ là từ gốc Việt. Chông gai nhẻ đường danh lợi, mặn lạt no mùi thế tình. (Tự thán 80.3).
phơi phơi 批批
◎ (phi phi). Phiên khác: phây phây: phấp phới (ĐDA); phây phây: đẹp phây phây (BVN, MQL), phe phe: bay phấp phới (Schneider, PL). phơi phơi là kiểu tính từ láy âm toàn phần từ một động từ, kiểu như lộ lộ (lồ lộ) < lộ (- ra), ngửa ngửa < ngửa (ngửa mặt), nghiêng nghiêng < nghiêng (nghiêng người), che che < che (ví dụ: che che cửa động một đường len - trịnh sâm). Nguyên động từ “phơi” là ”phô ra”. ví dụ mình cài xiêm lục phơi đuôi phượng, bóng tịn đìa thanh uốn khúc rồng. (Hồng Đức QATT b.228).
tt. <từ cổ> (vẻ rực rỡ) bày lồ lộ ra trước mắt. Năm thức phơi phơi đuôi phượng mở, tám lòng ỉm ỉm chữ nhàn phong. (Thái cầu 253.3). Chữ phơi phơi (biểu lộ ra bên ngoài) đối lập với trạng thái ỉm ỉm của những nội dung phong kín bên trong.
sất sơ 𱑎踈
◎ (suất sơ). Phiên khác: xác xơ (TVG), suất xơ: tiêu sơ, tiêu điều (ĐDA), thoắt xơ: đột nhiên xơ xác (Schneider, PL). Nghĩa khá tập trung, chỉ khác về phương án phiên. Cách phiên “xác” không hợp với thanh phù “suất” của chữ Nôm. Cách phiên “thoắt” của Schneider khắc phục được điều này, nhưng tỏ ra ép nghĩa. Xét cách ghi âm, đây là một từ láy thuỷ âm. Nên phiên là “sất sơ”, từ thế kỷ XVII về sau đọc là “thất thơ”.
tt. <từ cổ> xơ xác. Chữ “thất thơ” sau cho một biến thể láy khác: “thất thơ thất thưởng: bộ đi lưởng thưởng, yếu đuối như cò ma, chó đói” [Paulus của 1895 t2: 377]. Phồn hoa một đoạn tỉnh mơ, mẽ chuông tàn cảnh sất sơ. (Tự thán 108.2).
xình xoàng 情控
AHV: tình khống. Phiên khác: tình suông (TVG, BVN, MQL, VVK). Chữ 控 “khống”, có khả năng viết nhầm từ chữ “腔” (xoang). Xét, cách phiên trên là dựa theo AHV. Phiên “xênh xang” như Schneider là có cơ sở về âm khi coi đây là một từ láy. Xét, chữ “xênh xang” không thấy xuất hiện trong văn cổ, thêm nữa lại không hợp với chữ “quản” (mặc kệ). Chữ Nôm trên có thể phiên là “xênh xang” hoặc “xinh xang” nhưng âm này lại chỉ có nghĩa là “nở nang, tươi tốt, khoe khoang” [Paulus của 1895 t2: 579, 583], không hợp với văn cảnh. ĐDA phiên là “xềnh xoàng”, có lẽ ông cho đó là âm cổ của “xình xoàng”, “xuềnh xoàng” hiện nay, với nghĩa “dễ dãi, sơ sài, coi thế nào cũng xong”. pbb xênh xang.
tt. <từ cổ> chếnh choáng. “xình xoàng: say, vừa say, có chén” [Paulus của 1895: 1193]. Túi thơ bầu rượu quản xình xoàng, quảy dụng đầm hâm mấy dặm đàng. (Ngôn chí 9.1).
đà đà 已已
◎ Nôm: 它它
p. <từ cổ> láy âm của đà, nhấn mạnh thì quá khứ. Vệ nam mãi mãi ra tay thước, điện bắc đà đà yên phận tiên. (Bảo kính 183.6).
ấm áp 䕃押
tt. trái với lạnh lẽo., đây có khả năng là một dạng láy vốn xuất phát từ ấm ấm. Nằm có chiếu chăn cho ấm áp, ăn thì canh cá chớ khô khan (Bảo kính 134.5). x. đầm ấm, x. đầm hâm.
ỉm ỉm 掩掩
tt. <từ cổ> kín mít bên trong khiến không biết được là gì, dạng láy cổ của im ỉm. Năm thức phơi phơi đuôi phượng mở, tám lòng ỉm ỉm chữ nhàn phong. (Thái cầu 253.4).