Poems of Hồ Xuân Hương : 詠𠊚𣜾荒 - Vịnh người chửa hoang
詠𠊚𣜾荒 | Vịnh người chửa hoang | 奇𢘝朱𢧚化𢷣揚 餒𢚸払固別庒払 緣天渚𧡊儒頭育 分了𫳵㐌掋湼昂 丐罪𤾓𢆥払𠹾奇 𡨸情没塊妾吀𫼳 𬋩包𠰘世𠳒征壢 空固仍𦓡固買頑 | Cả nể cho nên hoá dở dang Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng. Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc Phận liễu sao đà đẩy nét ngang Cái tội trăm năm chàng chịu cả Chữ tình một khối thiếp xin mang Quản bao miệng thế nhời chênh lệch Không có, nhưng mà có, mấy ngoan. |
Ghi chú | |
Với người phụ nữ tầng lớp trên, việc chửa hoang có thể bị trừng phạt bởi voi dày (bắt nằm đó để cho voi dày déo lên bụng, giết chết cả người mẹ và đứa con chưa sinh.) Với người nông dân, về mặt xã hội còn tự do hơn trong việc gặp gỡ tình dục, có câu tục ngữ mà Hồ Xuân Hương dường như ủng hộ: Không chồng mà chửa mới ngoan. Có chồng mà chửa thế-gian sự thường. Nguyên bản trong chữ Nôm đầy những việc chơi chữ qua âm thanh cũng như chơi chữ qua hình ảnh bởi việc cắt nét chữ viết. Chẳng hạn, nét ngang viết giữa chữ nôm 了 liễu dành cho “liễu/gái” biến nó thành chữ “con” 子 tử, hàm ý có chửa. Ngang cũng tạo ra việc chơi chữ nghĩa là “mâu thuẫn” và “chu vi.” Nét sổ xuống, hay dọc, trên chữ “thiên” 天 làm đổi nghĩa thành “phu” 夫. Bên cạnh đó, đầu dọc trong câu ba cũng có nghĩa “đầu,” hàm ý việc sinh con. Không thực hiện được “tình yêu định mệnh,” người phụ nữ chưa hoàn chỉnh. |