Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ Điển
A Dictionary of 15th Century Ancient Vietnamese
Trần Trọng Dương.

Quốc Ngữ or Hán-Nôm:

Entry song tiết hoá
giắt 𢴑
◎ Các bản đều phiên là “dắt” với nghĩa “cầm tay ai mà đưa đi”. Nhưng toàn bài cho thấy thi nhân chỉ đang đi dạo một mình để chiêm nghiệm về thế giới và lòng người, nên khó có thể “dắt” tay ai đó được.
đgt. kẹp, “giắt tay vào lưng quần kiểu ba ba, dáng một người trầm ngâm” [BVN 1994: 50], “giắt tay” cũng có thể là trỏ việc khoanh hai tay trước ngực, rồi kẹp hai bàn tay giữa hai nách, thể hiện dáng đi bách bộ, vừa đi vừa nghĩ. Đủng đỉnh chiều hôm giắt tay, trông thế giới phút chim bay. (Mạn thuật 26.1).
gày 𤷍
◎ Kiểu tái lập: *?gaj² (*a- gày). ở vị trí 1.4, ngữ tố này chuẩn đối với “trốn”, cả hai có thể đều được song tiết hoá thành “*a- gày” và “*tơ- rốn”. ở vị trí 15.2 thì câu thơ đã đủ bảy chữ. Chứng tỏ giai đoạn thế kỷ XV, đã có song thức ngữ âm. Thế kỷ XII, ngữ tố này được ghi bằng chữ Nôm e1 阿計 [Phật Thuyết: 21a9; xem HT Ngọ 1999: 58, 61, 111, 114, 115; Shimizu Masaaki 2002: 768].
tt. trái với béo. (Thủ vĩ ngâm 1.4)‖ Bề sáu mươi dư tám chín thu, lưng gày da sảy, tướng lù cù. (Ngôn chí 15.2).
gác 擱
◎ Nôm: 閣 Ss với đối ứng: các (Tày) [HTA 2003: 47-48], cac, pạt [HV Ma 1984: 176]. AHV: các.
đgt. để, đặt, dừng, như gác bút, gác kiếm. Nguyễn Trãi có câu: “bến câu cá lạnh, chèo gác bãi” (釣渚魚寒棹擱沙 điếu chử ngư hàn trạo các sa). Đạp áng mây, ôm bó củi, ngồi bên suối, gác cần câu. (Trần tình 41.4).
góc 角
◎ Nôm: 谷 AHV: giác, lưu tích trong tam giác, tứ giác. Âm HTC: *krok (Baxter), *kruk (Lý Phương Quế), lưu tích thuỷ âm kép còn trong từ song tiết hoá: 角落 (Giác lạc). AHV: giác.
dt. HVVD mé rìa (của một không gian). Góc thành nam, lều một căn, no nước uống, thiếu cơm ăn. (Thủ vĩ ngâm 1.1, 1.8). Tiếng Hán chỉ dùng góc cửa (門角), góc tường (墙角).
rụng rời 𬈭浰
◎ Phiên khác: rụng rơi (ĐDA). Xét, “rụng rơi” và “rụng rời” đều là các đồng nguyên tự. Nhưng ở đây, đang thuộc khuôn vần -ời (dấu huyền) nên phiên như vậy.
đgt. <từ cổ> ý mạnh hơn rụng, đến thế kỷ XIX thấy đã có nghĩa dẫn thân “hãi kinh, sợ sệt” [Paulus của 1895: 884]. Thân nhàn đến chốn dầu tự tại, xuân muộn nào hoa chẳng rụng rời. (Thuật hứng 59.6).